Đình Đồng Dụ - Biểu tượng di sản, nơi lưu giữ bản sắc lễ hội truyền thống vùng đất An Dương
Đình Đồng Dụ thuộc thôn Dân Hạnh, làng văn hóa Đồng Dụ, xã Đặng Cương, huyện An Dương (nay là phường An Dương). Đình Đồng Dụ mang chính tên địa phương nơi cộng đồng dân cư sinh ra nó, đó là Đồng Dụ. Ngôi đình nằm gần với ngôi chùa làng và trong khu vực trung tâm của làng Đồng Dụ. Đình Đồng Dụ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1992.
Từ trung tâm thành phố Hải Phòng theo những đường phố khác nhau về thị trấn An Dương, sau đó du khách hỏi đến xã Đặng Cương về làng Đồng Dụ, sẽ được người dân địa phương chỉ dẫn tận tình về nơi di tích. Với hệ thống giao thông thuận tiện từ nội thành Hải Phòng qua quãng đường khoảng 12 km là đến di tích đình Đồng Dụ.
Đồng Dụ (同喻),theo Hán tự có nghĩa là biết bảo ban nhau để sống hòa thuận. Địa danh Đồng Dụ và dân cư đến nơi đây sinh cơ, lập nghiệp muộn nhất vào thời Lý, Thế kỷ XI- XII. Bởi lẽ cuối đời Trần, Thế kỷ XIII, xã Đồng Dụ dân cư đông đúc, nên Đức Đại Phạm đã đến đây xây dựng gia đình với bà phu nhân họ Đỗ. Huyện An Dương thành lập năm 1469, xã Đồng Dụ thuộc huyện An Dương. Năm 1837 thành lập phủ Kiến Thụy, huyện An Dương thuộc phủ Kiến Thụy, Đồng Dụ là xã thuộc An Dương. Năm 1902 thành lập tỉnh Phù Liễn, sau đó năm 1906 đổi là tỉnh Kiến An, An Dương thuộc phủ Kiến Thụy, tỉnh Kiến An. Niên hiệu Minh Mạng (1820-1840), triều Nguyễn, thành lập đơn vị hành chính tổng, xã Đồng Dụ thuộc tổng Văn Cú ( tổng Văn Cú có 10 xã: Văn Cú, Lương Quy, Hoàng Lâu, Hoa Phong, Đồng Dụ, Tràng Duệ, Vĩnh Khê, Vân Tra, Đồng Giới và Minh Kha) huyện An Dương. Đến niên hiệu Duy Tân (1907-1916), hình thành tổng Đồng Dụ, xã Đồng Dụ đứng đầu tổng cho đến cách mạng tháng 8 năm 1945.
Đình Đồng Dụ hiện nayThuở ban đầu đến khai hoang lập ấp Đồng Dụ có 12 dòng họ như: Đỗ, Nguyễn, Phạm, Bùi… tương truyền các dòng họ phát tích chủ yếu ở Thanh Hóa di cư đến. Sau này dân làng tôn vinh khởi tổ các dòng họ đến ban đầu lập làng là thập nhị Tiên công và được thờ phối tại đình làng. Thời xưa một số dòng họ có từ đường cổ làm bằng gỗ như họ Đỗ, nhưng sau này bị hỏng nát. Làng Đồng Dụ trước đây do thổ nhưỡng ưu ái nên nổi tiếng về nghề trồng cây quả, hoa trái. Đặc biệt làng trồng được cây cam, quả cam Đồng Dụ rất thơm, mát, ngon ngọt, tương truyền loại quả cam đường của làng đã được tuyển chọn để tiến vua. Đến thập kỷ 90 của Thế kỷ trước, do thiên nhiên, thổ nhưỡng bị biến đổi, giống cam bị thoái hóa, nên nghề trồng cam của làng Đồng Dụ cũng không còn. Làng Đồng Dụ trước đây còn có nghề thủ công làm vàng mã, có thời gian có tới 80 phần trăm hộ gia đình trong làng làm nghề trên. Sở trường làm vàng mã của Đồng Dụ là làm hàng vàng khối. Vàng khối được làm rất đẹp có nhiều kiểu cách, sản phẩm được bán khắp mọi nơi, cho nên người dân trong vùng ca ngợi truyền tụng câu ca : “Vàng giả mua được vàng thật”. Sau này do thị trường không ổn định, nên nghề làm vàng mã của Đồng Dụ cũng mất dần.
Đã từ lâu người dân Đồng Dụ đã khai thác lợi thế thổ nhưỡng tốt và biết kế thừa, phát huy kỹ thuật trồng cây quả trước đây, nên người dân nơi đây đã chuyển sang trồng hoa, cây cảnh như: cây hoa đào, cây hoa hải đường, cây quất. ..Đặc biệt trong các địa phương trồng hoa, cây cảnh của huyện An Dương cũng như của Hải Phòng, duy chỉ có đất làng Đồng Dụ trồng hoa hải đường mới được tươi đẹp. Sản phẩm hoa, cây cảnh của làng Đồng Dụ được bán trong cả nước. Năm 2013 làng Đồng Dụ đã được công nhận là làng nghề trồng hoa, cây cảnh. Với sản phẩm hoa, cây cảnh người dân Đồng Dụ đã đạt trung bình thu nhập bình quân đầu người, một năm là 62 triệu đồng. Năm 2015, Đồng Dụ cán đích nông thôn mới và hiện nay đang tiến tới xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.
Cũng như những làng quê khác của thành phố Hải Phòng, người dân Đồng Dụ cũng có nhiều đóng góp, hy sinh to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc trước nạn xâm lăng. Tổng kết trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới của đất nước, làng Đồng Dụ có 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 63 liệt sĩ, 28 thương bệnh binh, 02 gia đình có công với Cách mạng và có cụ Nguyễn Quang Châu là cán bộ Tiền khởi nghĩa.
Làng Đồng Dụ xưa có 2 đình, đình Đông và đình Đoài. Đình Đông được xây dựng trước và nơi thờ Đức Đại Phạm, nhưng những năm 60 của thế kỷ trước đã dỡ bỏ vì hỏng nát. Đình Đoài chính là ngôi đình Đồng Dụ ngày nay. Làng Đồng Dụ có 2 ngôi miếu, 1 miếu thờ Đức Đại Phạm, 1 miếu thờ Ngài Phạm Tử Nghi. Làng có 6 đền, nhưng hiện nay chỉ còn lại 4 đền gồm: đền Đệ nhị, đền Đệ tam, đền Đệ tứ và đền Đệ ngũ. Các ngôi đền được gọi tên theo vị trí, thứ bậc huynh đệ của 6 anh em Thành hoàng làng Đồng Dụ. Làng có 2 ngôi chùa, chùa Phúc Linh (福靈)và chùa Trung. Chùa Trung ngoài thờ Phật còn thờ Bà Bèo. Bà Bèo là vị thánh mẫu, có duệ hiệu là “Thạch tượng, Quang Vương Phật”, dân gian thường gọi là Bà Bèo. Theo bản ngọc phả hiện lưu giữ tại chùa “ Linh Quang”, làng Tràng Duệ, xã Lê Lợi, Bà Bèo là Phật, thánh linh ứng hiển hiện qua hòn đá nổi tại ao bèo làng Đồng Dụ, được nhà sư Xuân Nương đưa về chùa Tràng Duệ. Tại đây dân làng được thần nhân chỉ báo đã tạc hòn đá thiêng thành tượng thánh mẫu và xây đền tại chùa để phụng thờ thạch tượng. Đền Bà Bèo linh ứng, nên vua ban sắc phong quy định 4 xã: Đồng Dụ, Tràng Duệ, Lương Quy và Hoàng Lâu phụng thờ thánh mẫu làm Thành hoàng. Đền thờ thạch tượng thánh mẫu đặc biệt linh thiêng, cầu đảo rất linh nghiệm. Thạch tượng thánh mẫu đã âm phù cho Trịnh Kiểm đánh thắng nhà Mạc, thống nhất giang sơn. Nhiều triều vua sắc phong, gia tặng mỹ tự cho thánh mẫu là “ Trung đẳng thần”.
Bài trí thờ tựTheo ngọc phả các vị Đại Vương: Đại Phạm, Cây Đa, Cây Vối, Cống Mang, Láng Điển, Ông Hồng Cư sĩ, do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm đầu, niên hiệu Hồng Phúc (1572) ( Bản dịch do cụ Nguyễn Diên Niên dịch tư liệu Bảo tàng Hải Phòng lưu giữ). Thần tích các Ngài Thành hoàng được tóm lược như sau:
Dưới triều Trần Thuận Tông (1388- 1398), niên hiệu Quang Thái có người họ Nguyễn tên là Đại Phạm, quê ở huyện Hoa Phong (nay là huyện Cát Hải, Hải Phòng), kết hôn với bà Đỗ Thị Uyển người làng Đồng Dụ, hai ông bà ở với nhau rất hòa thuận được 3 năm sinh được 1 người con trai. Mấy năm liền sau đấy sinh được 5 người con trai nữa. Người con trưởng vì sinh ở dưới cây thông nên đặt tên là Bá Tùng, người thứ hai là Trọng Bách, người thứ ba là Trọng Minh, thứ tư là Trọng Mẫn, hai người con trai của vợ lẽ đặt tên là Quý Hống và Quý Nghị. Khi trưởng thành 6 người con trai gia đình họ Nguyễn đều xuất chúng, khí khái hơn người có thể so sánh với các bậc anh hùng, hào kiệt đương thời.
Một hôm ông Nguyễn nói với bà Uyển rằng: “ Là trai sinh chốn trần gian, nên cầm ngang ngọn giáo ở giữa khoảng trời đất, vuốt râu mà bàn việc đời giữa nơi tụ họp của anh em, giang tay xin ra chiến đấu ở ngoài biên ải hiểm yếu, việc gì cứ phải làm anh dân thường nhút nhát ở chốn này mãi. Bà trông nom nhà cửa, nuôi dạy con cái thay tôi lúc đi du học ở xa, đợi khi nào nên quan sang, áo gấm vinh hồi lúc đó mới thỏa điều mơ ước của tuổi xanh”. Sau khi từ biệt vợ con, ông đến học trọ ở phường Báo Thiện, Kinh đô Thăng Long. Ngày đêm ông dùi mài kinh sử, niên hiệu Quang Thái thứ 9 (1397), nhà vua tổ chức khoa thi lấy người tài. Ông Đại Phạm dự thi và đỗ đầu, ông được vua bổ chức Thừa tuyên Nam Sách, sau hai năm được thăng chức Gián Nghị, giữ chức An phủ sứ Hóa Châu. Làm quan ông rộng rãi, công bằng, coi dân như anh em, đối sử với mọi người khoan hòa. Vùng địa phương ông trị nhậm không có trộm cắp, nhân dân được an cư, lạc nghiệp. Nhà vua rất quý trọng, các quan trong triều đều trân trọng, kính nể. Vua thương ông nghèo cho phép ông thu tô thuế của xã Đồng Dụ để thêm lộc nhà. Từ đấy người dân Đồng Dụ ai lấy đều thấm nhuần ơn đức của ông, coi ông như bậc sinh ra mình. Trong các gia đình của cải đều dư dật, dân trang trù phú đều nhờ ơn đức của ông.
Bấy giờ có người quý tộc ngoại thích nhà Trần là Hồ Qúy Ly mưu toan muốn nắm hết quyền bính về tay mình, trên thì ngăn cản lòng vua, dưới thì lấn át lời bàn của trăm quan trong triều. Sau khi làm tờ chiếu ép vua Thuận Tông phải truyền ngôi cho Thái tử Án ( tức là vua Thiếu Đế, 1398- 1400). Năm Kỷ Mão niên hiệu Kiến Tân thứ 2, Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần, sai người giết Thuận Tông ở quán Ngọc Thanh, phế bỏ Thiếu Đế mới lên 5 tuổi, giáng xuống làm Công tước Bảo Ninh, rồi xưng Đế, đổi họ Hồ, đặt quốc hiệu Đại Ngu. Triều thần nhiều người bất bình, bỏ chức, tước không làm quan cho nhà Hồ. Sau khi cùng một số quan chức như Thái bảo Trần Dũng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân… mưu giết Qúy Ly, nhưng bại lộ, Hãng, Chân bị giết. Đại Phạm lánh về quê Đồng Dụ than rằng: “Bầy tôi trung không thờ hai vua. Qúy Ly là người hưởng lộc hậu của nhà Trần, lại manh tâm khinh bạc cướp ngôi vua, thực là trời đất phải tru diệt, quỷ thần và nhân dân đều căm giận. Nếu ta không sớm trù mưu chước, ắt lụy tới bản thân và gia quyến. Thánh nhân có lời: “Quân tử kiện cơ nhi tác”, nghĩa là người quân tử thấy có dịp tốt phải nổi lên ngay. Nay chi bằng yết thị cầu các anh hùng, hào kiệt nhân tài dựng cờ khởi nghĩa, để khôi phục ngôi vua nhà Trần thì muôn năm về sau tiếng thơm không mất, khỏi hổ thẹn với các vị tiên hiền nhà Trần ở chốn tuyền đài”. Ông Đại Phạm phát hịch truyền truyền đi tám xã: Vĩnh Khê, Văn Cú, Vân Tra, Đồng Giới, Hoàng Lâu, Lương Quy, Tràng Duệ, tập hợp được trên 2 trăm người, cùng các xã ở lân cận trong vùng được hơn 2 ngàn người. Xã Đồng Dụ là địa bàn xung quanh đều có sông bao bọc, địa điểm hiểm yếu. Ông đặt một đồn lớn ở trên gò đất có hình thế kim tinh lạc thủy (sao Kim rơi xuống nước), phía ngoài đắp thành lũy, phía trong cắm rào gỗ để làm nơi phòng thủ chống địch, lại sai 6 người con lập 3 đồn nữa ở xung quanh để tiện ứng giúp lẫn nhau.
Sáu người con ông Đại Phạm đương sức tài trai, luyện rèn võ nghệ, văn chương. Bá Tùng, Trọng Bách, Trọng Minh, Trọng Mẫn, Qúy Hồng, Qúy Nghị thông minh hơn người học vấn uyên bác. Nay thấy cha, mẹ có ý dẹp loạn yên dân, đều đến nghe mệnh lệnh của cha. Bá Tùng lập đồn trại ở xứ Cây Đa, Trọng Bách lập đồn ở xứ Cây Vối, một đồn trại nữa ở Cống Mang do người con thứ 3 là Trọng Minh trông giữ. Người con thứ 4 Trọng Mẫn thông thạo chữ nghĩa, trí nhớ tốt được giao trọng trách trông coi công việc trong ngoài doanh trại. Người con thứ 5 là Qúy Hồng có tính cách hùng dũng, phụ trách tuần phòng kiểm tra các đồn trại. Người con út là Qúy Nghị thông thạo chữ nghĩa, được giao giữ sổ sách trong quân. Bốn ông lớn oai danh, quân lệnh nghiêm minh nên quân lính không giám gọi tên tục mà chỉ gọi tên đồn trại, ông cả là Cây Đa, ông hai là Cây Vối, ông ba là Cống Mang, ông tư là Láng Điển. Hai ông 5 và 6 quan lính gọi là Ông Hống, Ông Nghị.
Mỗi người giữ một phương cự nhau với Qúy Ly, quân của Qúy Ly khi giao chiến thường bị thua, không dám tiến đánh, đối địch. Lúc bấy giờ bảy quận ở Hải Đông thường bị giặc cướp tàn phá và mất mùa. Ông Đại Phạm cùng các con chiêu mộ tám xã, nhân dân đều được hưởng an ninh, trật tự, mọi nơi đều lạc nghiệp. Thời đó có người con thứ của vua Nghệ Tông là Giản Định Vương, Trần Qũy (1407-1409), dấy quân rửa hận, khôi phục triều Trần. Đại Phạm bảo với các con rằng: Vua Giản Định đóng quân ở Nghệ An, các con nên dẫn đại quân vào đó bái yết cùng mưu việc lớn, duy em Nghị ở tuổi thiếu niên chưa quen việc chinh chiến, ở lại cùng ta giữ đồn trại để phòng việc bất trắc.
Năm người con vâng lời cha, xin mang theo một ngàn quân tinh nhuệ lên đường tiến về Nghệ An. Sau khi gia nhập đội quân trung nghĩa của nhà Hậu Trần các ông cùng với các tướng Đặng Tất, Triệu Cơ chống lại quân nhà Minh xâm lược nước ta. Đại Phạm cùng các con ông Bách Tùng, Trọng Bách, Trọng Minh, Trọng Mẫn cùng đội quân miền Hoa Phong đã lập được nhiều công lớn. Các ông Bá Tùng, Trọng Bách trong một trận thủy chiến, các ông dũng cảm chiến đấu, giết được tướng giặc là Trương Bá, Mã Thanh, một tướng giặc khác là Hoàng Trường cũng bị giết trong đám loạn quân. Trận ấy Mộc Thạch từ trên cao quan sát thấy quân tan vỡ vội vã ra lệnh thu quân. Quân khởi nghĩa thời hậu Trần mà cha con ông Đại Phạm tham gia đã có lúc giải phóng được khu vực từ Thanh Hóa trở vào và từ đó mở nhiều cuộc tiến công ra phía Bắc, làm cho quân đội nhà Minh nhiều thiệt hại. Nhưng dần về sau do năng lực hạn chế của bộ phận lãnh đạo nên cuộc khởi nghĩa không phát triển thành trung tâm đoàn kết phong trào của cả nước và cuối cùng bị thất bại.
Sau khi cuộc khởi nghĩa nhà hậu Trần thất bại, 6 cha con ông Đại Phạm lần lượt hy sinh anh dũng nơi chiến trường. Nhân dân địa phương rất thương cảm, tôn kính và lập miếu thờ các ông ngay tại nơi đồn trại của các ông đóng khi xưa, đồng thời theo tên gọi trước đây đề thần hiệu để phụng thờ. Vị thứ nhất là Đại Phạm Vương, thờ ở ngôi chính giữa, dưới là thần vị Cây Đa, thần vị Cây Vối, thần vị Cống Mang, thần vị Lãng Điển, thần vị Ông Hống để thờ. Sau khi thờ các ông làng xóm đều yên ấm, nhân dân phát triển đông vui, dân khang, vật thịnh đó cũng nhờ vào sự uy linh che chở của các ông. Về Ông Nghị ở ẩn tại núi Kim Nham nghe tin cha và các anh đều hy sinh và hiển thánh ở Đồng Dụ. Một hôm ông dẫn mấy đứa trẻ nuôi trong nhà mang ba nén bạc về quê hương và biếu dân làng. Ông nói với dân làng: “Tôi nay lấy hiệu là Cư sĩ Kim Đình, khi tôi qua đời dân làng nên để tôi được phối thờ cùng với cha và các anh tôi, đó cũng là điều tôi mong ước, nhân dân nên cẩn thận đừng sai lời”. Sau đó ông về Kim Nham được ít lâu và mất vào ngày 15 tháng 7.
Năm niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông trực tiếp làm tướng đốc xuất thủy binh đi đánh Chiêm Thành, khi qua Đồng Dụ, cũng lúc đó trời đã xế chiều, vua qua miếu thờ các vị Đại Vương, chợt thấy một vị thần tướng giáp mũ chỉnh tề, tay cầm gươm báu, có sáu vị phó tướng theo sau, tự xưng họ tên rồi nói, cha con chúng tôi là tướng nhà Trần đã hy sinh trong khi đánh giặc Minh được làm Phúc thần tại địa phương. Nay xin theo giúp Hoàng Thượng phù hộ ba quân, vừa dứt lời, thì vua Lê Thánh Tông tỉnh giắc mơ, biết là điềm lành, lập tức cho ghi việc ấy để nghiệm về sau. Quân ta tiến đến nước giặc, thế mạnh như sấm sét, sau đó bình được quân Chiêm. Vua mang quân về triều, nhớ tới lời vị thần ở Đồng Dụ, lập tức cho ban sắc phong tặng:
Vị thứ nhất là Đại Phạm Đại Vương, tặng thêm là Phúc thần, bậc Thượng đẳng linh ứng giúp vua
Vị thứ 2 là Cây Đa Đại Vương, thêm hai chữ: Nhạy cảm giúp thuận
Vị thứ 3 là Cây Vối Đại Vương, Phán đoán, Quả quyết thông minh
Vị thứ 4 là Cống Mang Đại Vương, Anh linh, Oai vũ, Dũng cảm
Vị thứ 5 là Lãng Điển Đại Vương, Thông minh giáng phúc rõ rệt.
Vị thứ 6 là Ông Hống Đại Vương, Cương nghị, Cả quyết, Hùng vĩ
Vị thứ 7 là Cư sĩ Đại Vương, Ngay thẳng, trang nghiêm
Sau này các triều đại kế tiếp đều ban sắc phong, gia tặng mỹ tự, do cầu xin điều gì cũng đều linh ứng.
Đình Đồng Dụ hiện nay là đình Đoài của làng Đồng Dụ trước đây, tương truyền được khởi dựng vào thời Hậu Lê, Thế kỷ XVII-XVIII, tức là làm sau ngôi đình Đông của làng. Theo thần tích đình Đồng Dụ cũng như các ngôi đền miếu thờ 7 cha con Ngài Đại Phạm, đều nằm trên nơi đồn trại của các ông khi xưa. Đình Đồng Dụ tọa lạc trên một khu đất thoáng rộng, cao ráo và nhìn về hướng Tây, hướng hoàn hảo, hòa hợp theo âm dương ngũ hành. Đình có kiến trúc mặt bằng chữ đinh, 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, trong đó có 1 gian cung cấm. Bậc tam cấp bước lên đình là hệ thống bậc đá xanh cổ có kích thước khá lớn ghép liền với nhau. Nhưng hiện tại chỉ còn hai bậc vì sân đình đã tôn cao che lấp mất một bậc thềm. Cửa đình cấu tạo ba gian, theo lối cửa cổ cửa thùng khung khách, phần ngưỡng đá của hệ thống cửa trước kia nay được chuyển sang thành ngạch cửa.
Đình Đồng Dụ được làm bằng vật liệu thiên nhiên truyền thống, đình xây theo thức đầu hồi bít đốc, lợp ngói mũi truyền thống. Hệ thống khung chịu lực của tòa tiền tế gồm bốn bộ vì, các cặp bộ vì cấu tạo tương tự nhau và đăng đối qua gian trung tâm. Bộ vì gian trung tâm, kết cấu vì nóc chữ công chồng tạo thành giá chiêng, vì nách cấu trúc thước thợ chồng lên nhau. Xà nách tiền chạm nổi đề tài lá lật mềm mại. Trên xà nách hậu được kết hợp các thức chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thông phong, phản ánh đề tài long vân khánh hội khá tinh xảo. Đầu dư chạm hình đầu rồng, mắt rồng to lồi, miệng ngậm ngọc, râu dài bện với nhau theo kiểu vắn thừng. Bảy hiên cấu tạo kiểu bảy ngang, trên má bảy chạm nổi hoa văn chữ triện lá giắt, mây quyện với lá thiêng. Bộ vì hồi cấu tạo tương tự như bộ vì gian trung tâm, nhưng trên cấu kiện kiến trúc chạm khắc đơn giản hơn. Tại các góc vuông được tạo ra từ cột cái và dưới xà dọc có những cấu kiện gỗ kiểu cánh gà được chạm nổi hoa văn chữ triện rút. Dưới các bảy hiên cũng được gia công bằng cấu kiện kiểu con sơn để đỡ cho bẩy, con sơn tạo hình chân triện rút và được chạm hoa văn chữ triện lá giắt.
Kết cấu và trang trí kiến trúcTòa hậu cung khung chịu lực gồm 3 bộ vì, vì 4 hàng chân cột, kết cấu vì kiểu thuận chồng giá chiêng, trên cấu kiện của hai bộ vì của tòa hậu cung được chạm khắc tinh xảo hơn tòa tiền tế. Đặc biệt bộ vì trước cửa cung cấm các cấu kiện như: ván bưng, xà nách, bẩy, thuận tạo thành một mặt cốn lớn, trên cốn chạm nổi tinh xảo đề tài rồng, mây ẩn hiện cùng với hoa lá thiêng. Hệ thống cửa cung cấm làm theo kiểu cửa cổ, cửa thùng khung khách, gồm cửa chính giữa, to rộng, ngưỡng cao, có bốn cánh ít khi mở. Cửa nách hai bên cửa chính, cửa nhỏ cấu tạo hai cánh. Lối vào trong cung nơi thâm nghiêm nhất của ngôi đình chủ yếu qua cửa nách. Bộ vì gian hồi tòa hậu cung, 2 cột cái trốn và cột quân hậu bằng đá đỡ xà lòng, trên bảy được chạm đề tài đầu rồng. Toàn bộ hệ thống chân cột được kê trên chân tảng đá xanh, dật hai cấp, cấp trên tròn tượng cho trời, cấp dưới vuông tượng cho đất, thể hiện ngôi đình đứng bền vững trong sự hòa hợp của trời đất. Với những kết cấu kiến trúc như bố trí bảy nằm ngang, một số hoành tròn và những mảng hoa văn chạm khắc trên cấu kiện kiến trúc có thể xác định đình Đồng Dụ hiện nay được làm thời Hậu Lê cuối Thế kỷ XVIII và sau này trùng tu vào thời Nguyễn, khoảng giữa Thế kỷ XIX.
Đình Đồng Dụ trải qua binh lửa chiến tranh nhưng hiện nay vẫn bảo tồn được một số cổ vật có giá trị về lịch sử văn hóa như sau:
- Khám, long ngai và thần tượng; thần tượng ngồi trong long ngai và đặt trong khám lớn. Toàn bộ thờ trên đều làm bằng gỗ quý và được đặt trang nghiêm trong cung cấm của đình. Long khám, long ngai được chạm tinh xảo với các đề tài truyền thống tứ linh, tứ quý, hoa lá thiêng. Theo truyền ngôn của người dân địa phương trước đây thần tượng thờ ở miếu, sau miếu đổ nát thần tượng rước về đình như hiện nay. Thần tượng được tạc tác theo kiểu tượng tròn, có đầy đủ mũ, áo, cân đai, trên phẩm phục nổi rõ rồng mây hội tụ, sóng nước thủy ba. Thần tượng ngồi tự nhiên trong tư thế phụng triều. Thần tượng mặt vuông chữ điền, tai to dài, râu dài, mắt nhìn thẳng, thần thái thể hiện sự khoan dung nhân hậu. Long khám, long ngai, thần tượng được tạo tác vào đầu Thế kỷ XX.
- Hương án tiền bằng gỗ tốt, đặt tại gian trung tâm tòa tiền tế, nhang án chân vuông thẳng, quây ba mặt chân, trên các mặt quây chia thành nhiều khung ô vuông, chữ nhật có kích thước khác nhau nhưng cân đối và đăng đối với nhau. Trong các ô chạm nổi, chạm bong kênh đề tài tứ linh, tứ quý. Nhang án sơn son thếp bạc phủ hoàn kim, có niên đại đầu thế kỷ XX.
Gian thờ chính- Kiệu bát cống một bộ gồm cả ngai bành, làm bằng gỗ vàng tâm, thuộc loại kiệu trung. Kiệu gồm 8 thanh rồng được kết nối với nhau bằng hệ thống chốt sắt và bánh trè, do vậy kiệu có thể tháo lắp dễ dàng, khi khiêng rước có thể chuyển hướng thuận lợi. Các thanh rồng và ngai bành được chạm khắc tinh xảo với đề tài rồng, mây, hoa, lá thiêng, sóng nước, long mã, tứ linh. Bộ kiệu điêu khắc mỹ thuật đẹp, có niên đại tạo tác cuối thế kỷ XIX.
- Đại tự bằng gỗ tốt treo trước cửa cung cấm, đại tự trang trí khung diềm xung quanh. Trong diềm chạm nổi hoa văn lưỡng long ẩn hiện trong mây chầu mặt nguyệt, nền đại tự sơn đỏ. Trên nền đại tự chạm nổi và sơn vàng ba chữ Hán lớn “Thượng đẳng thần” (上等神),nghĩa là nơi đây thờ các vị Thành hoàng có phẩm trật Thượng đẳng thần. Đại tự ghi dòng thượng khoản tạo tác, mang niên đại tuyệt đối triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909).
- Câu đối 1, câu làm bằng gỗ tốt, theo kiểu phẳng, treo trước cửa cung cấm. Câu đối nền đỏ, trên dưới câu đối có diềm hoa văn hoa dây chữ triện, chân chỉ rủ. Câu đối có chữ Hán:
臺池顯地靈葩衮光同七廟
-金石傳神像雨雲澤裕四民
Phiên âm: Đài trì hiển địa linh, ba cổn quang đồng thất miếu;
Kim thạch truyền thần tượng, vũ vân trạch dụ tứ dân.
Dịch nghĩa: Đất thiêng rõ đài cao, tôn quý, đẹp sáng nơi bẩy miếu
Thần tượng thành vàng đá, như mây mưa che thấm giúp dân.
Câu đối ghi dòng thượng khoản ghi năm tạo tác, niên hiệu Duy Tân, thứ 3 (1909). Câu đối được ông Phạm Duy Thế cúng tiến.
- Câu đối 2: Câu đối kiểu lòng máng làm bằng gỗ tốt, treo trước cột cái cửa cung cấm. Diềm câu đối chạm hoa văn hoa dây, điểm xuyết có các mảng gấm, trên đầu và dưới chân câu đối chạm ô tròn trong ô chạm theo thức truyền thống, thượng cầm, (chim phượng), hạ thú (lân trong mây). Nền câu đối chạm nền gấm, chạm câu đối chữ Hán sơn then.
靈聲赫濯昭千古
德澤江洋普四民
Phiên âm: Linh thanh hách trạc chiêu thiên cổ
Đức trạch giang dương phổ tứ dân.
Dịch nghĩa: Oai linh nổi tiếng rõ nay, trước
Đức như sông nước, giúp muôn dân.
Câu đối ghi lạc khoản tạo tác năm Kỷ Tị, niên hiệu Bảo Đại ( 1929). Câu đối do người trong xã ( không ghi tên) cúng tiến.
Ngoài ra đình Đồng Dụ còn bảo lưu được một số đồ thờ tự như long đình, bát biểu, long ngai, bài vị đều được tạo tác vào cuối thế kỷ XIX và đầu Thế kỷ XX. Một số bia đá ghi việc trùng tu tôn tạo đình có niên đại đầu Thế kỷ XX.
Trước kia Đồng Dụ vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, nhân kỷ niệm ngày sinh của Thánh, dân làng tổ chức lễ hội, đây là sự lệ lớn nhất trong năm. Trong lễ hội người dân tổ chức lễ rước thánh tượng từ đình ra miếu đến giữa làng rồi vòng về đình làm tế lễ. Ngoài rước thánh, tế lễ dâng hương dân làng còn tổ chức các trò chơi dân gian như: hát chèo sân đình, cầu thùng, đu tiên, đấu vật, tổ tôm điếm, cờ người…Ngoài dịp lễ trên vào ngày 18 tháng Giêng, ngày thắng trận, lễ dùng trâu, lợn, hát chầu văn, đánh vật, nhân dân 8 xã đều tới đền chính hành lễ, mỗi xã tổ chức một ngày đêm. Ngày 15 tháng 7, ngày hóa của vị Đại Vương Cư sĩ, ngày 6 tháng 12 âm lịch, ngày 6 vị thánh đồng hóa đều tổ chức lễ dâng cúng. Ngày nay nhân dân địa phương đang từng bước kế thừa và phát huy nghững nét đẹp văn hóa trong sinh hoạt lễ hội của tiền nhân để lại.
Đình Đồng Dụ công trình kiến trúc cổ, trung tâm sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng dân cư, địa điểm tri ân, thờ phụng các vị thánh người quê hương đã có công giúp nước, giúp dân. Đây cũng là những di tích hiếm quý của huyện An Dương cũng như của thành phố Hải Phòng trong cuộc khởi nghĩa 10 năm chống quân xâm lược Minh của dân tộc ta, do người anh hùng Lê Lợi lãnh đạo. Ngôi đình Đồng Dụ di tích quốc gia sẽ tô điểm và tạo nên sự hấp dẫn cho du khách trong và ngoài huyện An Dương đến tham quan, du lịch tại làng nghề truyền thống trồng hoa, cây cảnh Đồng Dụ./.
Thực hiện: Phòng Văn hóa - Xã hội