Miếu Nam - Di tích lịch sử quốc gia lưu giữ dấu ấn nhà nước Vạn Xuân và danh tướng Nguyễn Hồng tại phường An Dương, Hải Phòng
Miếu Nam là tên gọi của địa phương sau này. Nguồn gốc di tích trước đây là nguyên là ngôi đình của xã Hà Liễn thời xưa. Đình còn có tên chữ là đình Vạn Thọ, hiện nay thuộc thôn Hà Liên, xã Bắc Sơn. Miếu Nam đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 09/01/1990.
Từ trung tâm thành phố bằng nhiều ngả đường khác nhau, đi về thị trấn An Dương, sau đó đi tiếp về xã Bắc Sơn, hỏi thăm về di tích sẽ được người dân địa phương tận tình chỉ dẫn tới di tích. Hoặc có thể đi từ thành phố Hải Phòng theo tuyến đường quốc lộ 10, đến khu vực xã Bắc Sơn, hỏi đến di tích cũng rất thuận tiện vì miếu Nam nằm ngay bên trục đường quốc lộ 10. Xuất phát từ nội thành Hải Phòng đến di tích là hệ thống giao thông rất thuận tiện với quãng đường khoảng 17 km, du khách có thể đi bằng mọi phương tiện cơ giới hoặc thô sơ.
Hà Liên chính âm đọc là Hà Liễn, có thể do phương ngữ nên mọi người thường quen gọi như thế và dẫn đến hệ thống văn bản của nhà nước hiện nay cũng ghi như vậy. Đây là vấn đề địa danh bị gọi chệch và ghi chép thành quen được thấy tại nhiều địa phương của thành phố Hải Phòng.
Hà Liễn (河輦), theo Hán tự có nghĩa là dòng sông đẹp và quý giá. Tên địa danh xưa đã phản ánh ước vọng của cư dân mong muốn có môi trường tốt đẹp để cày cấy và đánh bắt thủy sản thuận lợi. Hà Liễn là vùng đất cổ, được xây dựng thành trang ấp từ trước Thế kỷ thứ VI, tức là trước thời nhà nước Vạn Xuân của dân tộc ta. Bởi Thế kỷ VI, trang Hà Liễn đã có Ngài Nguyễn Hồng một danh thần giúp Lý Bôn dựng lên nhà nước Vạn Xuân. Hà Liễn xa xưa là xã của huyện Thủy Đường (sau đổi thành Thủy Nguyên), phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Đến niên hiệu Duy Tân, triều Nguyễn (1907-1916), Hà Liễn là xã thuộc tổng Song Mai, huyện An Dương, tỉnh Kiến An. Từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1950 là xã Hà Liên. Từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 12 năm 1955 xã Hà Liên sát nhập với xã Quỳnh Cách, Phan Chinh và thôn Vật Cách Thượng ( xã Ái Quốc) thành xã Bắc Sơn. Đầu năm 1956, xã Bắc Sơn tách thành hai xã Bắc Sơn và Nam Sơn. Bắc Sơn hiện nay có 6 làng văn hóa: Bắc Hà, Hà Liên, Quỳnh Minh, Đông Hà, Nam Hà và Tây Hà.
Nhà Lương lần thứ hai sang xâm lược nước ta đã diệt nhà nước Vạn Xuân, hai làng Hà Liên và làng Rướng có những vị tướng giúp Lý Bôn dựng nước Vạn Xuân, nên cư dân đều bị phiêu bạt đi các nơi. Đến thời Lý -Trần, Thế kỷ XI-XIII, làng xã mới ổn định lại. Trải qua binh lửa chiến tranh, giặc dã người dân Hà Liên có nhiều cuộc tụ hợp và ly tán. Đến nay Hà Liễn có nhiều dòng họ cùng nhau chung sức xây dựng xóm làng như: họ Vũ, Trần, Đoàn, Nguyễn, Lê v.v. Trong số các dòng họ trên có nhiều tên đệm khác nhau, như họ Trần có Trần Văn, Trần Hữu, Trần Khắc, Trần Đình, các họ có thể xa xưa cùng chung một khởi tổ, một gốc trong làng, nhưng do phú ý, gia phả dòng họ bị thất lạc nên sau này không chắp nối được với nhau.
Người dân Hà Liên trước đây chủ yếu sinh sống bằng nghề canh nông, ngoài ra làm chài lưới đánh bắt thủy sản trên sông.
Làng Hà Liên trước đây có 3 đình, đình Nam, đình Tây và đình Thượng, đình Nam thờ Ngài Nguyễn Hồng, đình Thượng thờ Thánh phụ ( bố của Nguyễn Hồng), đình Tây thờ Thánh mẫu (mẹ của Nguyễn Hồng). Làng có 1 chùa, có tên chữ là Tường Vân (祥雲),theo truyền ngôn đây là ngôi chùa cầu tự sinh ra Nguyễn Hồng. Làng Hà Liễn có từ chỉ bằng đá để xuân, thu phụng thờ, tế lễ các vị tiên Nho, tiên hiền và tôn vinh, giáo hóa việc học tập, tu dưỡng thời Nho học. Hiện nay đình Nam chính là miếu Nam di tích đã xếp hạng quốc gia năm 1990, Văn chỉ nằm trong khuôn viên của miếu Nam, riêng đình Tây, đình Thượng đã mất và chuyển thành mục đích sử dụng khác.
Đình Hà Liên thờ Thành hoàng là Ngài Nguyễn Hồng, theo bản thần tích của xã Hà Liễn, tổng Song Mai, huyện An Dương, tỉnh Kiến An, do các vị chức sắc của xã khai báo về trên vào đầu Thế kỷ XX. Bản thần tích do Hàn Lâm viện, Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn niên hiệu Hồng Phúc năm đầu ( 1572), quan Quản giám bách thần, Tri điện hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền theo chính bản sao lại niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 3 ( 1735). Thân thế sự nghiệp của Ngài Nguyễn Hồng được tóm lược như sau
Vào thời Lý Nam Đế, tại trang Hà Liễn, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dương có gia đình họ Nguyễn, tên là Thành, vợ là Đào Thị Ngọc, gia thế có học nghiệp, thi thư, lễ nhạc, truyền được đến ba, bốn đời. Tuy vậy gia đình, nhà cửa vẫn giữ nếp cần lao, thanh bần. Ông bà Thành tuy tuổi đã ngoại ba mươi nhưng chưa có con nối dõi. Ông bà Thành thường than vãn vì muộn mằn và ra sức làm việc thiện mong cầu được trời đất soi xét ban cho gia đình có ngày được toại ý. Hai ông bà lập một đàn tràng để tế lễ cầu trời, đất, bách thần phù giúp. Trong thời gian cầu đảo, vào một ngày, lúc nửa đêm đang ngủ bà Thành mơ thấy ông, bà lên thiên đình và ngắt được bông hoa quế và ôm trong lòng. Thái bà trong lòng rất vui mừng, sau đó bà tỉnh giấc biết mình nằm mơ.
Ba ngày sau ông, bà lễ tạ, một thời gian Thái bà thấy mình mang thai. Đến kỳ sinh nở vào giờ Ngọ, ngày 16 tháng 2 năm Mậu Tý, bà sinh ra người con trai, diện mạo rất phương phi, thân cao lớn. Cha mẹ rất yêu mến và đặt tên là Hồng, đến năm ông Hồng 12 tuổi cha, mẹ cho đi học, qua 4, 5 năm, văn chương quán triệt, học vấn tinh thông. Tuy ông Hồng nhỏ tuổi nhưng đã thể hiện được chí học hành. Ông còn đi tiêu giao đây đó, hưởng thú vui với cuộc sống thiên nhiên đời thường. Bất hạnh đến với gia đình, cha ông bị bệnh nên đã qua đời, đó là ngày 1 tháng 8, lúc đó ông Hồng 24 tuổi. Ông Hồng an táng thân phụ và cư tang ba năm, ông cùng thân mẫu sống trong cô đơn, gia cảnh bần hàn. Sau ba năm mãn phục tang cha. Vào thời đó, năm Ất Mùi, nhà vua mở khoa thi tại triều đình để tuyển chọn nhân tài. Ông Hồng biết chuyện đó, nên xin thân mẫu lên Kinh thành ứng thi, thân mẫu đồng ý. Ông Hồng tham gia thi và ông đã trúng tuyển đứng đầu khoa thi. Ông Hồng được vua cho yết kiến và phong cho ông chức Thượng thư Bộ Hộ, Tham tán mưu sự. Nhận chức tước xong ông xin nhà vua về bản quán lễ tiên đường, nhà vua chuẩn cho. Ông Hồng về quê hương mở yến tiệc mời mọi người dân trong trang đến dự, mọi việc xong ông về triều nhậm sự. Khoảng 1, 2 năm được tin thân mẫu qua đời, vào ngày 13 tháng Giêng, ông liền xin về chịu tang mẹ. Sau một năm mãn tang, ông trở lại triều đình làm việc quốc gia.
Vào thời đó có bọn giặc Ma Na, biết triều Lý đang suy vi, nên đã sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo lắng triệu tập triều thần họp bàn kế đánh giặc, nhưng chưa tìm được kế hay. Nhà vua liền chiếu ông Hồng đến và nói hiện nay triều đình chưa tìm được kế chống giặc, nên phong cho ông làm Thăng đô Ngự sử, đốc xuất các châu, trấn, đạo trong nước. Nhận xong chức tước ông Hồng dẫn một ngàn tuấn mã cùng ba vạn tinh binh, chia làm hai đường thủy, bộ song hành tiến đánh trại đồn giặc Ma Na tại sông Bạch Đằng. Bọn giặc Ma Na nghe tiếng ông Hồng dẫn binh giao chiến, tự nhiên quân giặc tẩu tán quay chạy về nước. Từ đó Ma Na thần phục và tiếp tục triều cống nước ta. Ông Hồng mang quân về triều báo tin thắng trận, nhà vua rất vui mừng, mở yến tiệc khao thưởng tướng sĩ. Sau đó ông Hồng xin vua cho về bản quán, bái lễ tiên đường, ông mở yến tiệc khao lao mọi người dân trong làng. Mọi việc xong xuôi ông Hồng về triều tiếp tục công việc được giao.
Trải qua một số năm, lúc ông Hồng 79 tuổi, ông xin nhà vua về trí sĩ tại quê nhà, nhà vua chuẩn tấu. Về quê hương, trải qua 3, 4 tháng vào một ngày ông Hồng không có bệnh mà mất, đó là ngày 21 tháng 12. Vào thời điểm ông mất bỗng trời đất nổi phong ba, mưa lớn, sấm, sét ầm ầm. Sau một lúc trời quang mây tạnh mọi người thấy nơi ông Hồng mối đã xông lên thành ngôi mộ lớn, người dân thấy đó là điều rất linh dị, bèn làm biểu tấu lên nhà vua. Nhà vua rất thương xót cho một vị công thần, trung nghĩa có nhiều công lao với đất nước. Nhà vua cho quan trong triều mang sắc phong về tận quê hương, truyền cho người dân địa phương lập miếu phụng thờ ông, vua còn ban cho địa phương 100 quan tiền để hương hỏa phụng thờ. Nhà vua ban phong mỹ tự, thần hiệu để phụng thờ ông Hồng cùng với sự trường tồn, thịnh vượng của quốc gia.
Vua ban sắc phong cho ông Hồng là: “Đương cảnh Thành hoàng, Quảng tế, cư sĩ Hoằng hóa, Thượng đẳng Phúc thần”. Lệnh cho trang Hà Liễn, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn được là đất hộ nhi, là nơi thờ chính để phụng sự Ngài Nguyễn Hồng mãi mãi về sau.
Ngày Thánh đản (ngày sinh) 16 tháng 2, phẩm lễ dùng bàn bánh, xôi, thịt, rượu, được vui chơi ca hát trong 3 ngày.
Ngày Thánh hóa (ngày mất) 21 tháng 12, dâng 3 mâm phẩm lễ gồm xôi, thịt, rượu
Ngày khánh hạ (ngày mừng thắng trận), 11 tháng 10, phẩm lễ tam sinh (thịt trâu, dê, lợn), xôi, rượu, được vui chơi ca hát 10 ngày.
Chữ “ Hồng” phải kiêng không được dùng.
Miếu Nam, tức là đình Nam, tên chữ là đình Vạn Thọ, theo tương truyền đình được xây dựng ngay trên nơi Ngài Nguyễn Hồng hóa. Cũng theo các cụ cao niên, đình Vạn Thọ, khởi dựng vào thời Lê trung hưng Thế kỷ XVII. Đình trước đây làm bằng vật liệu truyền thống có ván sàn, lòng thuyền, đại bái năm gian, mái cheo đao tầu góc. Tháng 11 năm 1949, để chấp hành lệnh tiêu thổ kháng chiến chống Pháp của trên, ngôi đình Nam đã bị đốt phá. Vào mùa đông năm 1950, mặc dù còn khó khăn trong kháng chiến nhân dân địa phương đã dựng ngôi đình ngay trên nền đất cũ. Năm 1996, nhân dân địa phương xây dựng lại miếu Nam trên nền đất cổ xưa, năm 2015 trùng tu, tôn tạo lại Miếu Nam như hiện nay.
Miếu NamMiếu Nam nhìn về hướng Tây Nam, hướng cổ xưa của ngôi đình, xa xa là sông Cống Sến, chi lưu của sông Văn Úc và quần thể di tích, thắng cảnh núi Voi, được nhà nước xếp hạng năm 1962. Miếu Nam có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ đinh, 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung trong đó có 1 gian cung cấm. Đình làm bằng vật liệu hiện đại, kết hợp với vật liệu truyền thống, kiến trúc theo thức đầu hồi bít đốc, trụ đấu, tay ngai. Đại bái có ba gian cửa chính, cửa bằng gỗ, đóng kiểu cửa cổ, cửa thùng khung khách, mỗi gian bốn cánh. Hai gian hồi đại bái, tường bao xây phía trước trổ của sổ hình chữ nhật đứng, trong đặt tấm đan thoáng hình tròn chữ thọ cách điệu, chầu vào chữ thọ là bốn hoa văn dạng hình con dơi, biểu hiện phúc chầu chữ thọ. Phía trên cửa gian trung tâm đại bái, phần tường xây, đắp bức đại tự, bên trong đắp nổi ba chữ Hán lớn: “Vạn thọ đình” (萬夀亭), như vậy đắp chữ trên với mục đích người dân muốn trả lại chính tên ban đầu của thiết chế phụng thờ này.
Mái miếu Nam lợp ngói mũi truyền thống, trên mái đắp trang trí đề tài truyền thống như: đỉnh giữa bờ nóc đắp lương long chầu nguyệt, hai đầu bờ nóc đắp kìm, ngậm bờ nóc. Phần xây nối câu với hai tường hồi miếu ra phía trước tạo thành tay ngai, ngoài cùng tay ngai là trụ biểu. Trụ biểu có đế tạo dáng quả bồng, thân trụ tiết diện vuông, bên trong đắp khung câu đối, đầu trụ đắp trang trí đèn lồng, đỉnh trụ đắp bốn chim phượng tung cánh về bốn phía, đuôi chim phượng thắt lại với nhau ở giữa, xòe rộng ra ở phần trên, trông tổng thể như một đài hoa nở rộng trên bầu trời. Bên ngoài tay ngai còn xây thêm phần tường rộng kiểu cánh gà khá rộng, cánh gà có mái che. Trong cánh gà tạo hình khung vuông lớn, trong khung ô đắp, vẽ trang trí
Trí đề tài tứ linh: long, lân, quy, phượng.
Tòa đại bái bộ khung chịu lực làm bằng bê tông cốt sắt, kết cấu gồm bốn bộ vì, vì bốn hàng chân cột, nhưng hàng cột quân gần như nằm trong tường bao che, vì nóc cấu trúc chồng rường con nhị, vì nách thuận chồng hai con. Trên các cấu kiện kiến trúc đắp trang trí mang tính điểm xuyết đề tài lá guột mềm mại, đấu kê con thuận đắp nổi hoa sen cách điệu. Tòa hậu cung gồm ba gian, khung chịu lực kết cấu ba bộ vì, cấu tạo tương tự như bộ vì tòa đại bái. Cung cấm ngăn cách với bên ngoài bằng hệ thống cửa cung, cửa chính của cung ít khi mở, cửa cấu tạo thượng song, hạ bản, người ra vào cung cấm chủ yếu bằng cửa nách hai bên cửa chính, cửa nách ngưỡng cao, có một cánh đủ để cho một người đi vào. Cách cấu tạo cửa như trên để gìn giữ thâm cung nơi thánh ngự, nguồn thiêng của di tích.
Như đã nói ở trên năm 1949 đình Nam phải tiêu thổ kháng chiến nên đồ thờ tự tế khí đã bị thất lạc, mất mát. Tuy nhiên hiện nay đình cũng còn bảo tồn được một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hóa sau đây:
Kiệu thất cống- Kiệu bát cống và kiệu thất cống, hai bộ kiệu làm bằng gỗ vàng tâm, loại gỗ nhẹ để khiêng trong lễ rước thánh được thuận tiện, dễ dàng. Kiệu bát cống và thất cống đều do tám người khiêng rước. Kiệu bát cống là kiệu biểu tượng để rước Đức thánh ông, kiệu thất cống biểu tượng rước Đức thánh bà (Đức thánh bà ở đây là thân mẫu của Nguyễn Hồng). Kiệu bát cống gồm đủ bộ có cả phần long ngai hậu bành ở trên. Kiệu cấu tạo 8 thanh rồng, các thanh rồng được lắp gép chồng lên nhau qua bốn chốt sắt và bánh trè. Phần long ngai cũng được lắp gép với hệ thống thanh rồng qua những mộng thẳng. Cách cấu tạo này giúp cho việc tháo lắp thuận tiện và khi rước thánh kiệu có thể chuyển hướng dễ dàng. Các thanh rồng cũng như hậu bành được chạm khắc đề tài rồng, mây, tứ linh, hoa lá thiêng rất cầu kỳ, tinh xảo.
Kiệu thất cống cấu tạo gồm bảy thanh rồng, bởi vậy nên được gọi là thất cống ( thất theo Nho tự tưc là số 7) và hậu bành ở trên kiệu. Về mặt lắp gép kết cấu các thanh rồng với nhau tương tự như kiệu bát cống, nhưng kiệu thất cống chỉ có khác, phía trên chỉ có một thanh rồng và trên cùng là hậu bành. Các thanh rồng và hậu bành của kiệu thất cống được chạm khắc cầu kì, tinh xảo như kiệu bát cống. Nhiều nơi phụng thờ thánh mẫu, thường cũng có kiệu thất cống, nhưng cấu tạo nối kết bảy thanh là chạm khắc hình chim phượng và kiệu có mắc võng vào hai đầu thanh chim phượng trên cùng. Như vậy kiệu thất cống của miếu Nam là một tác phẩm nghệ thuật khá độc đáo, hiếm quý duy nhất có ở thành phố Hải Phòng. Bộ kiệu thể hiện sự sáng tạo trong chế tác dân gian, một biểu tượng để tôn vinh rước các bậc mẫu thần.
- 4 đạo sắc phong của vua triều Nguyễn, ban cho Ngài Nguyễn Hồng làm Bản cảnh Thành hoàng của làng Hà Liễn. Sắc phong vua Tự Đức thứ 6 ( 1853); sắc phong vua Tự Đức thứ 33; Sắc vua Đồng Khánh năm thứ 2 ( 1887); Sắc vua Khải Định năm thứ 9 ( 1924) gia tặng mỹ tự cho Ngài Nguyễn Hồng là “ Đoan túc tôn thần”.
- Bia đá: “Sùng tu bi kí” ( “崇 修碑記), bia dựng niên hiệu Duy Tân thứ 5 ( 1911), bia khắc ghi việc đóng góp công đức trùng tu lớn, dựng cây chồng nóc đình Vạn Thọ.
Bài trí thờ tựLàng Hà Liễn trước đây nhân dịp ngày thánh đản dân làng tổ chức lễ hội, đây là lễ hội làng được tổ chức lớn nhất trong năm. Lễ hội diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch. Cứ 5 năm một lần vào dịp lễ hội, làng tổ chức rước thánh, lễ rước thánh từ các miếu thờ thánh về đình Công đình to nhất của làng ( hiện nay là trường tiểu học của xã Bắc Sơn), để tế lễ làm hội lễ. Đoàn rước có đầy đủ nghi trượng, nghi vệ, hai cỗ kiệu, bát cống, thất cống. Kiệu bát cống có thần tượng danh tướng Nguyễn Hồng ở trên đi trong đoàn rước. Trong lễ hội làng còn có rước lợn ông bồ của các giáp ra đình. Theo truyền ngôn đoàn rước thánh thường có hiện tượng kiệu bay, tức là không ai thúc bách nhưng hai kiệu rước thánh người khiêng rước tự nhiên chạy rất nhanh không ai có thể đuổi kịp. Đây là một hiện thăng hoa trong tâm linh thường chỉ diễn ra ở một số nơi rước các vị thánh được cho là linh ứng, thiêng liêng. Ngoài phần tế lễ lễ hội làng Hà Liễn còn có các trò chơi thi đấu như: đấu vật, đu tiên, hát chèo sân đình, hát ca trù… Ngày nay nhân dân địa phương đang từng bước gạn đục, khơi trong để kế thừa phát huy những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp trong hội lễ mà tiền nhân xây dựng lên.
Miếu Nam, tức là đình Vạn Thọ xưa của dân làng Hà Liễn, nơi thờ vị đại quan Thượng thư học rộng, tài cao của nhà nước Vạn Xuân. Di tích đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước ta thời vua Lý Bôn, Thế kỷ VI của người dân Hà Liến nói riêng, người dân An Dương nói chung. Di tích miếu Nam còn bảo tồn được bộ kiệu thất cung một tác phẩm nghệ thuật duy nhất có ở thành phố Hải Phòng.
Cùng với những di tích khác của xã Bắc Sơn, như đình Rướng, chùa Cao Linh… Đặc biệt là ngôi chùa Tường Vân, một ngôi chùa tối cổ có lịch sử khởi dựng từ Thế kỷ VI. Đây là một trong hai ngôi chùa được xác định có niên đại sớm nhất của Hải Phòng ( chùa Đót Sơn, Cấp Tiến, Tiên Lãng cũng có lịch sử xây dựng vào Thế kỷ VI). Chắc chắn miếu Nam sẽ trở thành địa điểm hội tụ của người dân trong và ngoài thành phố Hải Phòng đến tham quan, chiêm bái./.
Thực hiện: phòng Văn hóa - Xã hội.