DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐÌNH QUỲNH HOÀNG, XÃ NAM SƠN, HUYỆN AN DƯƠNG
(Nay là Tổ dân phố Quỳnh Hoàng, phường An Dương)
Đình Quỳnh Hoàng thuộc thôn Quỳnh Hoàng, xã Nam Sơn, ngôi đình được mang chính tên địa danh nơi cộng đồng dân cư sản sinh ra nó, đó là Quỳnh Hoàng. Đình Quỳnh Hoàng được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1992.
Từ trung tâm thành phố, theo các ngả đường phố khác nhan đi về thị trấn An Dương, đi qua cầu Rế, đi tiếp trên đường quốc lộ 353 khoảng hơn 1 km là đến làng Quỳnh Hoàng. Du khách hỏi thăm di tích sẽ được người dân chỉ dẫn tận tình đến ngôi đình. Một đường khác, du khách đi theo quốc lộ 5, khoảng 6 km, đến ngã tư, đèn xanh, đỏ điểm giao giữa quốc lộ 5 và quốc lộ 353, rẽ vào quố lộ 353, đi khoảng hơn 1km đến làng Quỳnh Hoàng nơi có di tích cần tìm.
Quỳnh Hoàng (琼 璜) theo nghĩa Nho tự là làng quê đẹp như ngọc Quỳnh, ngọc Hoàng. Các bậc cổ nhân khi đặt tên làng đã thấy mảnh đất nơi đây rất đẹp và quý, nhưng cũng là ước nguyện của tiền bối với hy vọng hậu thế sẽ xây dựng quê hương đẹp, quý như ngọc quỳnh ngoạc hoàng.

Đình Quỳnh Hoàng
Quỳnh Hoàng hình thành muộn nhất vào thời Lý, Thế kỷ XI- XII. Bởi thời Trần trang ấp nơi đây đã sinh ra Ngài Nguyễn Danh Uy, danh tướng nhà Trần. Quỳnh Hoàng xa xưa là xã thuộc huyện Gíap Sơn, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Đầu triều Nguyễn, thành lập đơn vị cấp tổng, Quỳnh Hoàng mang tên của tổng, tổng Quỳnh Hoàng gồm 7 xã: Quỳnh Hoàng, Vật Cách Thượng, Vật Cách Hạ, Cống Hiến ( sau đổi thành Cống Mỹ), Lương Quán, Mỹ Tranh và Hà Liễn ( Hà Liễn nay là thôn thuộc xã Bắc Sơn). Quỳnh Hoàng xã đứng đầu tổng, xã đứng đầu tổng thời xưa thường có vai trò quan trọng về quyền lực, tài chính và vị thế. Theo sắc phong ghi trong thần tích, niên hiệu Duy Tân ( 1907- 1915), xã Quỳnh Hoàng, tổng Quỳnh Hoàng, thuộc huyện An Dương, phủ Kiến Thụy, tỉnh Kiến An. Ngày nay Quỳnh Hoàng là một trong 6 thôn của xã Nam Sơn ( 6 thôn: Quỳnh Hoàng, Vật Cách Thượng, Vật Cách Hạ, Lương Quán, Mỹ Tranh, Cống Mỹ).
Quỳnh Hoàng phía Nam giáp sông Tam Bạc, sông có tên Nôm là sông Rế, nơi xa xưa là môi trường sinh sống của người Quỳnh Hoàng. Ngày nay là con sông hiền hòa, trong xanh chứa nguồn nước ngọt tưới mát cho hàng ngàn ha lúa, hoa mầu trong huyện và cũng là một trong 3 con sông cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho người dân thành phố Hải Phòng. Về khai điền, lập ấp Quỳnh Hoàng có những dòng họ: Bùi, Lê, Nguyễn, Trịnh…sau này dân đến tụ cư nên có thêm nhiều dòng họ khác. Quỳnh Hoàng có chùa cổ, tên chữ là Quỳnh Lâm. Phần lớn người dân trong làng theo tôn giáo đạo Phật, nhưng làng cũng có một bộ phận người theo Công giáo, có nhà thờ Công giáo xây dựng năm 1933. Tuy tôn giáo, tín ngưỡng có sự khác biệt, song dân làng Quỳnh Hoàng sống đoàn kết, cần cù, năng động, quả cảm, khoan hòa, trọng lễ nghĩa, tinh thần, tính cách đó đã trở thành truyền thống, một sức mạnh to lớn của quê hương. Trước đây người dân Quỳnh Hoàng sinh sống bằng canh nông, trồng trọt, đánh bắt thủy sản trên sông Rế. Quê hương Quỳnh Hoàng nổi tiếng về trồng cau, tương truyền cau Quỳnh Hoàng đã có mặt tại thị trường Kinh kỳ Thăng Long. Ngày nay ngoài sản xuất canh nông, trồng trọt dân làng còn làm dịch vụ và thương mại.
Đình Quỳnh Hoàng thờ bốn vị Thành hoàng, thân thế của các vị Thành hoàng:
Vị Thành hoàng thứ nhất: Ngài Nguyễn Danh Uy.
Theo bản thần tích được quan Quản giám bách thần, Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền theo lệnh trên sao lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ nhất ( 1735), hiện lưu giữ tại địa phương. Thân thế sự nghiệp của Nguyễn Danh Uy được tóm tắt như sau:
Ông sinh năm 1244 tại làng Quỳnh Hoàng, thân phụ Nguyễn Danh Nghi, thân mẫu Nguyễn Thị Lai người làng Cam Lộ cùng huyện ( nay phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, Hải Phòng). Thân mẫu sau lần mơ bắt được một hổ con mà sinh ra ông. Khi sinh Ngài hào quang, hương thơm bay lan tỏa khắp nhà. Hổ là chúa sơn lâm, oai phong như trời, bởi vậy Ngài được thân phụ luận theo giấc mộng mà đặt tên là Uy (một âm khác đọc là Oai). Ông là người cường tráng, khỏe mạnh lại chăm học tập, rèn luyện võ nghệ, nên nổi tiếng là nhân kiệt thời đó. Ông dựng nhà ven sông làm chài lưới, mở lớp dạy võ nghệ cho trai tráng trong vùng. Trần Quốc Tuấn nghe tin đến tận trang Quỳnh Hoàng hai lần mới gặp được ông. Hai người đàm đạo cả ngày và trở thành người bạn tri âm. Năm 1284 giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, ông được Trần Quốc Tuấn tiến cử với vua Trần, sau khi thử tài vua phong cho ông tước Quán Phục Hầu. Vì thạo nghề sông nước, nên ông được Trần Hưng Đạo giao cho 1 vạn quân và 30 chiến thuyền để tuần tra, kiểm soát các cửa khẩu sông lớn và đánh chặn quân chi viện của địch. Quân giặc đại bại, ông được phong chức “ Tổng tướng lĩnh, Đại tướng quân”. Do công lao to lớn của ông, nên làng Quỳnh Hoàng được vua ban là đất “Hộ nhi”, mộc ấp của Ngài. Nhân có tiền thưởng, Ngài Danh Uy biếu dân làng 10 lượng vàng mua ruộng, vườn, ao làm tài sản công. Năm 1287 quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ 3, ông cùng Hưng Đạo Vương cầm quân đánh giặc. Trong chiến dịch Bạch Đằng năm 1288, Danh Uy được giao trực tiếp chỉ huy đội quân khiêu chiến, đánh chặn để dẫn dắt quân địch vào trận địa cọc mai phục của ta. Quân giặc bị tiêu diệt, đất nước khải hoàn, Danh Uy được ban chức “Đại tướng quân, Danh tổng Vương”. Trang Quỳnh Hoàng được phong là “Thang mộc ấp”, một đặc ân của vua Trần thường chỉ ban phong cho các thân Vương, Hoàng tộc. Cũng từ đó dân làng Quỳnh Hoàng trở thành địa phương giầu có, lớn mạnh. Sau một số năm làm quan ở Kinh thành, do sức khỏe yếu Ngài xin về chí sĩ ở quê nhà. Tại quê hương những năm cuối đời Danh Uy đã mang tiền của giúp đỡ nhân dân. Ông còn trồng cây thuốc Nam để làm thuốc chữa bệnh cho mọi người, ân huệ của ông lan truyền rộng khắp trong vùng. Năm 1297, Danh Uy qua đời vua Trần biết tin rất thương xót một bậc huân tướng có nhiều công lao, vì đất nước mà quên chuyện xây dựng gia đình riêng. Vua ban sắc phong tặng: “ Trung liệt Đại tướng quân, Danh tổng Đại Vương”, cho triều thần mang sắc về tận trang Quỳnh Hoàng làm lễ tế Ngài. Nhân dân an táng Ngài tại quê hương, theo di chúc của ông sau khi cải táng đưa di cốt về ký táng tại núi Tượng Sơn, xã Tiên Hội, nay là khu vực núi Voi thôn Tiên Hội, xã An Tiến, huyện An Lão, Hải Phòng. Nơi đó có gia nô của ông trông nom hương khói. Địa điểm để di cốt của ông hiện nay nằm trong một đơn vị bộ đội Hải Quân. Từ rất xa xưa nhân dân đã dựng tại đây ngôi miếu để phụng thờ ông. Âu cũng là thiên lý duyên kỳ ngộ, sinh thời Ngài là Đại tướng quân chỉ huy đánh thủy bộ, khi về cõi vĩnh hàng Ngài được những người lính thủy trông coi hương hỏa.
Vị Thành hoàng thứ hai: Nguyễn Cống Lãng
Ngài Nguyễn Cống Lãng với Danh Uy đây là đôi bạn vong niên, một bài ca tình bạn tuyệt vời, bất hủ hiếm có trong lịch sử. Ngài Cống Lãng sinh năm 1236 tại trang Bách Lẫm, huyện Trấn Yên, Phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa ( Địa danh trên nay thuộc thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái). Thân phụ ngài là Nguyễn Danh Lương, thân mẫu là Đoàn Thị Mỹ, song thân tuổi cao nhưng chưa có con nối dõi, ông bà đã thành tâm làm lễ cầu thần linh ở ngôi miếu trên núi quê nhà. Sau đó được sơn thần báo cho biết Thượng đế cho Tiên Đồng giáng xuống làm con. Ngài Cống Lãng sinh ra khôi ngô, tuấn tú, tướng mạo to, lớn khác người, 7 tuổi ông được bố mẹ cho đi học. Tứ thư, ngũ kinh, Nho học ông rất tinh thông, sở học của ông ngang bằng Hương Cống ( bởi vậy sau tôn vinh gọi ông là Cống Lãng). Năm 15 tuổi phụ mẫu qua đời, sau thời đó ông nghe tin trang Quỳnh Hoàng có Nguyễn Danh Uy, bậc anh hùng, ông liền đến gặp, hai ông tâm đầu ý hợp như anh hùng tao ngộ, ông xin ở lại sống tại Quỳnh Hoàng. Giặc Nguyên sang xâm lược nước ta vua Trần phong cho Danh Uy làm “Danh tổng Đại tướng quân”, Cống Lãng làm “Phó Tướng quân” cùng Trần Quốc Tuấn chỉ huy lực lượng đường thủy, đường bộ đánh giặc. Sau hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông, đất nước thanh bình, ông Lãng làm quan trong triều một số năm sau đó cũng như Danh Uy, Cống Lãng xin về chí sĩ tại bản quán. Khi biết tin Danh Uy mất, Cống Lãng liền về Quỳnh Hoàng nơi người bạn tri âm qua đời làm lễ phúng viếng. Nhớ thương người bạn tri âm, tri kỷ và tương đồng hoàn cảnh vì quê hương, đất nước hai ông đều không xây dựng gia đình riêng. Ngài Cống Lãng muốn báo đáp tấm lòng cao thượng, tình xưa, nghĩa cũ với bạn, ông ở lại sinh sống tại Quỳnh Hoàng. Ông mở trường dạy học, ông dạy rất, nghiêm cẩn, học trò theo học ông rất đông và nhiều người thành đạt. Mọi người tôn vinh ca ngợi ông là “Gíao thụ Hải Đông”, Ngài trở thành người thầy giáo nổi tiếng ở đạo Hải Đông thời bấy giờ. Tuổi ngoại lục tuần, vào một ngày ông đi tắm gội, bỗng bầu trời tối đen, dưới sông sóng nước nổi lên cuồn cuộn, sấm chớp dữ dội, từ trên trời một xe hạc trong mây hạ xuống đón ông và ông đã hóa. Nhân dân Quỳnh Hoàng được tin ra tới nơi thì thấy mối xông đắp thành ngôi mộ lớn. Dân làng tâu lên triều đình, vua Trần rất thương xót ban phong cho ông:“Cống Lãng Đại Vương” và được thờ tự làm Phúc thần của làng. Thái tổ Lê Lợi bình được giặc Minh, vua tri ân tới các vị thánh có linh ứng âm phù đất nước, đã phong cho ông là “Thượng đẳng thần”.

Ban thờ các Ngài Nguyễn Danh Uy và Nguyễn Cống Lãng
Vị Thành Hoàng thứ ba: Ngài Phạm Tử Nghi
Theo thần tích lưu tại di tích Lăng miếu Đôn Nghĩa ( nơi thờ ông ). Phạm Tử Nghi tên húy là Thành, tên chữ là Tử Nghi, quê ở làng Niệm Nghĩa, huyện An Dương, Phủ Kinh Môn, Xứ Hải Dương. Nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.Từ nhỏ ông nổi tiếng học một biết mười, ông lại có sức khỏe hơn người, lớn lên ông chăm học tập, luyện rèn võ nghệ, trao dồi binh pháp, nên trở thành người có văn, võ toàn tài. Thuở tráng niên ông đã tập hợp mọi người đắp đê ngăn nước mặn mở rộng xóm làng phát triển sản xuất và chống giặc cướp bảo vệ quê hương. Trong một lần ông gánh tiền đóng thuế cho dân làng lên kinh thành. Do có sức khỏe ông vác được một cây gỗ lớn cho quan quân triều đình, trước sự kinh ngạc của mọi người, nên ông đã được yết kiến vua Mạc. Vua Mạc thấy ông có sức khỏe lại giỏi võ nghệ nên vua giao cho ông diệt trừ 3 con voi dữ ở cánh đồng Nhân gần Kinh thành mà bấy lâu chưa ai diệt được. Phạm tử Nghi xin về quê ba tháng để tập luyện cách đánh voi. Tại quê hương ông đắp con đường lớn, dài, hai bên đường đắp các ụ đất lớn, lúc tập luyện võ hét to vung gậy gạt san bằng. Người đương thời cảm phục sức khỏe phi thường của ông gọi “Ông tướng Thiên Lôi”, đường ông đắp đã thành cổ tích ghi trong sách sử. Hiện nay con đường đó là đường phố Thiên Lôi, quận Lê Chân, Hải Phòng. Sau ba tháng tập luyện ông đi diệt ba con voi dữ, hai con bị chết, một con bị thương nặng. Đánh thắng ba con voi dữ ông được vua phong làm “Đại tướng quân” và được vua nhận làm Phò Mã. Ông là võ quan cao cấp của triều Mạc có nhiều công lao giúp dân, giúp nước. Một bậc anh hùng thời tao loạn, mặc dù là tướng nhà Mạc triều đại đối địch với nhà Lê. Song triều Hậu Lê rất kính trọng tài, đức của ông, đã ban sắc phong cho ông làm Thành hoàng của nhiều làng. Thần tích về ông nói rằng sau khi bị Triều Minh ( Trung Quốc) dùng quỷ kế phản trắc ám hại ông. Ông đã hiển Thánh làm cho nước Minh không yên. Nhà Minh phải làm lễ tế rất trọng hậu đưa tiễn ông như một bậc Công, Hầu. Bè chở thủ cấp của ông không ai đẩy nhưng vẫn trôi về nước Nam. Tương truyền bè qua các bến sông đều được các nơi dựng miếu thờ và tôn ngài làm Thành hoàng làng. Ông thường hiển linh phù hộ cho người dân làm ăn trên sông nước. Làng Quỳnh Hoàng xưa cuộc sống rất quan thiết với sông lớn Rế, nên đã phụng thờ Ngài Phạm Tử Nghi làm Thành Hoàng. ( xem thêm phần Thành hoàng Phạm Tử Nghi thờ tại đình Vĩnh Khê, An Đồng)
Vị Thành hoàng thứ 4: Trần Quốc Tuấn
Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300). Ông là Anh hùng dân tộc, danh tướng thế giới. Thân phụ là Trần Liễu, thân mẫu là Công chúa Lý Thị Nguyệt. Ngài bản tính thông minh, dĩnh dị, tương truyền là Tiên đồng giáng sinh. Cha, mẹ mời nhiều thày giỏi về dạy cả văn lẫn võ.
Đầu triều Trần đế quốc Mông Cổ đánh chiếm nhiều nơi trên thế giới, sai sứ đòi vua Trần Thái Tông sang cống và mượn đường đánh Trung Quốc, vua không nghe. Đầu năm 1257, giặc theo đường sông Thao tiến đánh Thăng Long. Trước thế giặc mạnh, quân ta tạm rút, đồng thời thi hành triệt để chính sách “ Vườn không nhà trống”, khiến cho kẻ địch không có lương thực, lại không hợp thủy thổ, ốm chết nhiều. Trần Quốc Tuấn chỉ huy phản công, đuổi giặc ra khỏi biên giới. Năm 1279, đế quốc Mông Cổ chiếm được toàn bộ Trung Quốc lập nên triều Nguyên, đem nhân tài vật lực của một nước lớn rộng đến trên 32 triệu km2 sang đánh nước Đại Việt lần thứ hai, cuối năm 1284 đến tháng 7 năm 1285 và lần thứ ba tháng 3 năm 1287 đến tháng 4 năm 1288. Tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch, có lúc thế nước nguy như trứng chồng. Nhưng nhờ truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa đặc sắc, trên dưới một lòng, anh em hòa mục, cả nước dốc sức lại mà đánh, nên cả thế giới ngày ấy chỉ có Đại Việt dám đánh và đã chiến thắng giặc Nguyên Mông vô cùng vẻ vang
Ngày 20 tháng 8 năm 1300, anh hùng Trần Quốc Tuấn qua đời ở Vạn Kiếp được vua Trần phong là Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc công, Bình Bắc Đại Nguyên soái Hưng Đạo Đại Vương, dựng đền thờ ở Vạn Kiếp, Tức Mạc và Trần Thương…Rất nhiều nơi trên cả nước nhân dân dựng đền, miếu, điện thờ kể cả tư gia. Thành phố Hải Phòng có đền thờ chính ở Thụ Khê, xã Liên Khê, Thủy Ngyên, đền Phú Xá, phường Đông Hải 1, quận Hải An. Ngay ở Trung Quốc, một số nơi cũng thờ, nhân dân suy tôn Ngài là Đức Thánh Trần, là cha của dân tộc. Người dân tin rằng sau khi qua đời Ngài hiển thánh cứu dân, độ thế, trừ tà sát quỷ. Các đền phủ thờ mẫu đều có ban thờ Trần Triều, thờ cha. Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ, ngày giỗ trọng của dân tộc Việt. Đình Quỳnh Hoàng thờ hai vị tướng quân của Trần Quốc Tuấn, nên dân làng rước Đức Thánh Trần để thờ với ý nghĩa tôn vinh chủ tướng cùng hai tướng quân đã cộng khổ trong chiến trận đánh đuổi giặc Nguyên Mông.

Từ sân hội khu di tích đi vào nghi môn đình Quỳnh Hoàng, nghi môn xây kiểu thức 4 cột đồng trụ, 2 cột cao, lớn bên trong, hai cột nhỏ, thấp bên ngoài, tạo ra khoảng giữa là chính môn, hai khoảng bên là tả môn và hữu môn. Qua chính môn là cây cầu Hương Liên, cầu hương thơm của hoa sen. Cầu làm bằng bê tông, cốt sắt bắc qua hồ đình hình bán nguyệt. Nước hồ trong xanh, sóng nước lăn tăn, in bóng khoảng trời mây huyền ảo. Cầu Hương Liên hình vòng cung, hai bên thành cầu có đôi rồng uốn 5 khúc trong mây, chầu ra phía cổng đình cho ta cảm giác đi vào thế giới thiêng liêng, thánh thiện. Sân đình được nát gạch đỏ phằng đều, phía trước sân hai bên có cây đa to lớn cành lá xum xuê tỏa bóng mát cho khách đến thăm đình. Đình Quỳnh Hoàng khởi tạo từ Thế kỷ XVII. Song do thăng trầm của lịch sử và qua nhiều lần trùng tạo, ngôi đình được xây dựng lại năm 2015. Đình Quỳnh Hoàng hiện nay theo thức kiến trúc truyền thống, mặt bằng chữ nhị, 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung, cũng là 3 gian cung cấm. Đại bái xây dựng kiểu mái chéo đao tầu góc, lợp ngói mũi hài. Trên đỉnh chính giữa bờ nóc đắp lưỡng long chầu mặt nguyệt. Các góc đao mái đắp tổ hợp rồng chầu, phượng vũ. Trên khúc nguỷnh đắp con sô cưỡi mây nhìn về nhau. Hệ thống khung chịu lực của tòa đại bái làm bằng bê tông, cốt sắt, gồm bốn bộ vì. Các bộ vì cấu trúc tương tự nhau, kết cấu vì theo thức thuận chồng, giá chiêng. Trên cấu kiện của các bộ vì cũng được đắp trang trí hoa văn đề tài lá guột truyền thống. Tòa nhà hậu cung gồm ba gian, xây theo thức hồi bít đốc, trụ đấu. Bộ khung chịu lực của hậu cung gồm hai bộ vì, vì hai hàng chân cột, kết cấu vì đơn giản kiểu giá chiêng, không trang trí. Các chân cột của ngôi đình đều được tạo chân tảng hài hòa, cân đối, sơn mầu giả đá. Mái hậu cung cấu tạo hai mái chảy, lợp ngói mũi hài.
Đình Quỳnh Hoàng còn gìn giữ được nhiều đồ thờ tự, tế khí có giá trị về lịch sử và mỹ thuật như: sắc phong, long ngai, bài vị, nhang án, bát hương… nhiều di vật đã trở thành cổ vật, tác phẩm mỹ thuật hiếm quý. Sau đây xin giới thiệu một số cổ vật có giá trị tiêu biểu của ngôi đình:

Sắc phong
1. Sắc phong: đình Quỳnh Hoàng đang bảo tồn được nhiều sắc phong nhất trong các các di tích của huyện An Dương, gồm 9 đạo sắc của vua triều Nguyễn ban tặng cho các vị Thành hoàng: Sắc phong 1 niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853), phong cho Nguyễn Danh Uy là “Diệu cảm hiến phu chương hiển chi thần”; sắc thứ 2, niên hiệu Tự Đức 33 (1880) phong cho Ngài Danh Uy với duệ hiệu như trên; Sắc thứ 3 niên hiệu Đồng Khánh nhị niên (1887) phong cho Ngài Danh Uy với duệ hiệu như trên; Sắc phong 4 niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), phong cho Ngài Danh Uy với duệ hiệu nêu trên; Sắc phong 5 niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917), phong cho 2 Ngài: “Trần triều Đại tướng quân Nguyễn Danh Uy, Tổng công tôn thần”; “Trần triều Hương Cống, Nguyễn Lãng công tôn thần”; Sắc phong thứ 6 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924), phong Nguyễn Danh Uy; Sắc thứ 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) phong “ Đương cảnh Thành hoàng Hương cống, Nguyễn Lãng công tôn thần, tặng Đoan túc tôn thần”; Sắc niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) phong Phạm Tử Nghi là “ Hoằng hiệp Thượng đẳng thần”;
2. Long ngai và bài vị gồm 3 bộ; long ngai bài vị biểu tượng sự hiện diện của các vị Thành hoàng ngự tại chốn đình chung, nơi dân làng phụng thờ. Bài vị để trong long ngai, đặt trang trọng trong cung cấm. Long ngai, bài vị chế tác bằng gỗ vàng tâm được gia công chạm khắc rất tinh xảo với các đề tài tứ linh, tứ quý, mây, sóng nước, hoa lá thiêng. Long ngai, bài vị sơn son thếp bạc, phủ hoàn kim ánh lên mầu vàng sang quý. Qua các nét hoa văn trang trí, điêu khắc trên long ngai, bài vị có thể xác định niên đại thời Hậu Lê Thế kỷ XVIII. Đây là những bộ long ngai bài vị có giá trị cao về mặt lịch sử và mỹ thuật trong hệ thống di tích được xếp hạng của huyện An Dương
3. Bát hương: gồm 5 chiếc, chất liệu gốm, mầu nâu sẫm, do lò gốm Phù Lãng sản xuất. Bát hương kiểu dáng như một chiếc bát lớn, đáy nhỏ, miệng loe rộng, hai bên có tai, tai tạo hình rồng uốn lượn trong mây đầu vươn lên cao. Trên thân và miệng bát hương mặt trước tạo nổi hình mặt trời với các tia sáng tỏa ra xung quanh. Dưới vị trí mặt trời có khung hình chữ nhật nằm ngang, bên trong khung tạo nổi 4 chữ Hán: Thánh cung vạn tuế. Qua hoa văn trang trí trên bát hương có thể đoán định bát hương được tạo tác thời Hậu Lê, Thế kỷ XVIII.
Hàng năm tại khu di tích đình Quỳnh Hoàng người dân tổ chức các lễ hội truyền thống. Dịp đầu năm mới vào ngày 10 tháng Giêng tại đền quan Tiến Sĩ có “Lễ hội khai bút” lễ hội rất đông vui đặc biệt thu hút được rất nhiều các thanh thiếu niên, học sinh tham dự. Trong lễ hội có lễ rước thư bút từ đình Quỳnh Hoàng sang chùa Quỳnh Lâm rồi đến đền quan Tiến Sĩ, sau đó làm lễ khai bút. Trong hội lễ có biểu dương phát phần thưởng cho các em học sinh giỏi. Lễ hội có các hoạt động vui chơi tìm hiểu văn hóa lịch sử địa phương, viết thư pháp, bình thơ, ngâm thơ của Bác Hồ…Lễ hội khai bút đầu xuân tuy mới được tổ chức từ năm 2017 đến nay, nhưng lễ hội rất có giá trị giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa và giáo dục khuyến học, khuyến tài của địa phương. Lễ hội khai bút đầu xuân tại khu di tích đình Quỳnh Hoàng cần được kế thừa, phát huy để trở thành một di sản văn hóa phi vật thể của địa phương. Ngày 15 tháng 2 âm lịch, lễ hội kỳ phúc của làng, vào những năm chẵn làng tổ chức lễ rước thánh quanh làng, ngoài phần tế lễ có các trò chơi như vật võ, cờ tướng, đu tiên, đi cầu thùm, hát chèo, chầu văn, giao lưu văn nghệ giữa các làng trong xã…Vào mùa thu ngày 15 tháng 9 âm lịch, nhân dịp tưởng niệm ngày hóa Đức thánh Phạm Tử Nghi, tại đình làng có hội lễ “Cơm mới”. Hội lễ rất khác biệt, độc đáo không địa phương nào có. Trong lễ tiết về phẩm lễ người dân địa phương tuyển chọn những thực phẩm đặc sắc của quê hương để làm lễ. Cỗ lễ dâng lên cúng tế Thành hoàng là những cao lương, mỹ vị của quê hương được chế biến từ sản vật đặc sắc của địa phương làm ra như: xôi gạo nếp mới với chim ngói, cơm gạo mới, cá mòi, nộm tay bí, hồng cốm… Tế lễ dâng cúng xong mọi người đến dự hội lễ cùng nhau thụ lộc, như cùng được hưởng ân trạch thánh ban. Lễ hội “ Cơm mới” ngoài giá trị giáo dục truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn” tri ân Thành hoàng, lễ hội còn là động lực khuyến khích người dân hăng say lao động, phát triển sản xuất làm ra nhiều của cải xã hội, nhiều sản phẩm đặc sắc cho quê hương. Lễ hội “ Cơm mới” mang nét độc đáo, đặc sắc về ẩm thực của địa phương. Lễ hội “ Cơm mới” cần được nghiên cứu bảo tồn và lập hồ sơ vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Những ai đã mọt lần về dự lễ hội “Cơm mới”, cũng như những hội lễ khác của quê hương Quỳnh Hoàng, đều có ấn tượng, cảm xúc tốt đẹp và rất mong muốn sớm được trở lại ( xem nội dung bài “Lễ hội truyền thống mừng cơm mới” trong sách) .

Đình Quỳnh Hoàng sau trùng tu tôn tạo
Khu di tích đình Quỳnh Hoàng hội tụ đầy đủ những giá trị lịch sử văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của người dân trong và ngoài địa phương. Du khách đến nơi đây lên đình thấy được võ công hiển hách của các bậc chiến tướng đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông, kẻ thù làm cả thế giới kinh hoàng. Xuống đền Quan Tiến sĩ, mọi người sẽ tìm được nền văn trị thời Lê Thánh Tông, triều đại nổi tiếng vẻ vang nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khu di tích còn hàm chứa rất nhiều những giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, đặc sắc của một vùng quê giầu bản sắc văn hóa.
Tuy nhiên cần sớm có kế hoạch quy hoạch xây dựng khu di tích đình Quỳnh Hoàng thực sự là trung tâm sinh hoạt văn hóa truyền thống của nhân dân trong và ngoài địa phương. Một địa điểm tham quan, du lịch xứng tầm với những giá trị của quý giá hàm chứa trong khu di tích quốc gia đình Quỳnh Hoàng.
Ban biên tập